Đưa khoa học công nghệ vào trọng tâm chính sách nông nghiệp-môi trường
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường được các đại biểu Quốc hội đánh giá là bước rà soát quan trọng nhằm hoàn thiện khung pháp lý thống nhất, hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, gắn với mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế xanh và bền vững.
Quang cảnh phiên thảo luận tổ của Quốc hội, sáng 6/11/2025. (Ảnh: DUY LINH)
Thúc đẩy số hóa và hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu
Sáng 6/11, tại phiên thảo luận tổ của Quốc hội về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, nhiều đại biểu Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của cơ quan soạn thảo, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm tính khả thi, khoa học và phù hợp thực tiễn trong tổ chức thực hiện.
Phát biểu thảo luận tại Tổ 1 (đoàn Hà Nội), đại biểu Nguyễn Thị Lan cho rằng, việc bổ sung vai trò của hệ thống đại học-viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trồng trọt, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm; từng bước hội nhập sâu với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu.
ại biểu Nguyễn Thị Lan phát biểu. (Ảnh: DUY LINH)
Nữ đại biểu đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã làm việc nghiêm túc, công phu, khoa học và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc hoàn thiện hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Theo đại biểu, việc sửa đổi là cần thiết, nhằm bảo đảm phù hợp với mô hình chính quyền 2 cấp, đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy, tăng cường phân cấp, phân quyền, đồng thời cụ thể hóa các nghị quyết mới của Đảng và Bộ Chính trị về phát triển khoa học-công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số.
“Đặc biệt, các nội dung sửa đổi đã chú ý đến phân cấp hợp lý, giao quyền chủ động hơn cho địa phương nhưng vẫn bảo đảm sự thống nhất quản lý ở Trung ương, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế biển xanh và nông thôn bền vững trong giai đoạn mới”, đại biểu Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Góp ý tại Điều 15 về sửa đổi, bổ sung Luật Trồng trọt năm 2018, đại biểu cho rằng, dự thảo đã thể hiện rõ định hướng hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về giống cây trồng, phân bón, mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung cần làm rõ, đặc biệt là bổ sung vai trò của cơ sở đào tạo và nghiên cứu nông nghiệp trong kiểm định, đánh giá độc lập chất lượng giống và phân bón.
Theo đại biểu, ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Hà Lan, các trường đại học nông nghiệp được nhà nước công nhận là phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia, có chức năng kiểm định độc lập, giám sát và phản biện kỹ thuật.
Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 1. (Ảnh: DUY LINH)
“Cơ chế này giúp giảm tải cho cơ quan hành chính, tăng tính khách quan và cập nhật nhanh tiến bộ khoa học vào quản lý thực tiễn. Việc Việt Nam bổ sung quy định này sẽ tạo nền tảng pháp lý để huy động trí tuệ khoa học trong kiểm soát chất lượng đầu vào của ngành trồng trọt”, đại biểu Nguyễn Thị Lan nói.
Về gia hạn lưu hành giống cây trồng, đại biểu đồng tình với hướng sửa đổi nâng thời hạn lên 20 năm đối với cây hằng năm và 25 năm với cây lâu năm, song đề nghị bổ sung điều kiện gia hạn rõ ràng, dựa trên đánh giá định kỳ về năng suất, tính ổn định di truyền, khả năng thích nghi và tác động môi trường do đơn vị nghiên cứu-đào tạo được bộ chỉ định thực hiện. Đại biểu cho rằng, cơ chế này sẽ giúp bảo đảm tính khoa học, minh bạch, tránh tình trạng giống thoái hóa vẫn lưu hành kéo dài, ảnh hưởng năng suất và uy tín nông sản.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan cũng đề nghị mở rộng mạng lưới phòng thí nghiệm khảo nghiệm phân bón, cho phép các viện nghiên cứu, trường đại học đạt chuẩn ISO/IEC 17025 tham gia vào hệ thống quốc gia, tận dụng năng lực sẵn có của Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
“Việc thể chế hóa vai trò của các cơ sở khoa học trong hệ thống quản lý trồng trọt quốc gia sẽ tạo hành lang pháp lý cho mô hình hợp tác ‘nhà nước-nhà khoa học-doanh nghiệp-nông dân’, tương tự mô hình Teagasc (Ireland) hay INRAE (Pháp). Đây là hướng đi đúng, giúp Việt Nam tận dụng nguồn lực tri thức trong nước, tăng năng lực phản biện và cập nhật công nghệ vào hoạch định chính sách”, đại biểu Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Hoàn thiện quy định, tránh kẽ hở pháp lý, bảo đảm hài hòa phát triển và bảo vệ môi trường
Đối với Luật Phòng, chống thiên tai, đại biểu Dương Bình Phú (Đắk Lắk) đề nghị bổ sung quy định về ứng dụng công nghệ hiện đại, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) trong cảnh báo, dự báo, thông tin, truyền thông; xây dựng cơ sở dữ liệu phòng, chống thiên tai thống nhất, chia sẻ nhanh, kịp thời.
Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về bảo hiểm thiên tai, cơ chế di dân, tái định cư, khắc phục hậu quả sau thiên tai, cũng như có chính sách hỗ trợ và khuyến khích huy động nguồn lực xã hội, khu vực tư nhân và người dân tham gia phòng, chống thiên tai.
Đại biểu Phạm Hùng Thắng phát biểu. (Ảnh: Media Quốc hội)
Đại biểu Phạm Hùng Thắng (Ninh Bình) cho rằng, việc bổ sung quy định “miễn áp dụng yêu cầu phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung” cho một số khu, cụm công nghiệp đã hoạt động, thể hiện nguyên tắc kế thừa chính sách và bảo đảm không làm gián đoạn hoạt động của các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đã hình thành trước thời điểm luật có hiệu lực, đồng thời tránh phát sinh gánh nặng đầu tư bổ sung đối với các doanh nghiệp đã đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, đại biểu lo ngại điều này có thể tạo ra tiền lệ xấu và ảnh hưởng lâu dài đến môi trường nếu không được kiểm soát chặt. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung quy định về việc thực hiện đánh giá tác động môi trường tổng thể đối với toàn khu vực trước khi quyết định miễn áp dụng yêu cầu phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, nhằm bảo đảm việc miễn trừ được thực hiện trên cơ sở khoa học, khách quan và phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường.
Về công tác bảo vệ môi trường, đại biểu Nguyễn Văn Huy (Hưng Yên) yêu cầu phải làm rõ "tiêu chí khẩn cấp" đối với các dự án đầu tư công được miễn đánh giá tác động môi trường. Đại biểu đề nghị khi thẩm định phân kỳ, phải xem xét "mối liên hệ không gian, hạ tầng, nguồn thải" giữa các phần, tránh việc chủ đầu tư "cố tình chia nhỏ các cái dự án để né tránh hoặc làm nhẹ mức độ đánh giá tác động môi trường".
Tại tổ thảo luận, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn (Hải Phòng) yêu cầu Ban soạn thảo báo cáo rõ tiêu chí xác định “điểm nghẽn”, đồng thời cảnh báo việc bổ sung cụm từ “hiện có” vào Khoản 2, Điều 23 Luật Đê điều có thể dẫn tới hợp thức hóa các công trình, nhà bám đê, lấn chiếm hành lang đê điều sai phạm.
Đại biểu cũng phản đối quy định cho phép nhập khẩu “cây mang theo bầu đất”, vì tiềm ẩn rủi ro sinh vật gây hại cao, cần được quy định chặt chẽ, không giao toàn quyền cho Chính phủ.
Trung Hưng
Nguồn: https://nhandan.vn/dua-khoa-hoc-cong-nghe-vao-trong-tam-chinh-sach-nong-nghiep-moi-truong-post921074.html
Bài viết khác
Bất chấp những tác động cực đoan từ thời tiết tại nhiều vùng miền, ngành nông nghiệp vẫn giữ được đà tăng trưởng với kim ngạch xuất khẩu tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước.
Từ những phòng thí nghiệm trong nước, Việt Nam đang dần làm chủ nhiều công nghệ sinh học tiên tiến, tiến gần hơn đến mục tiêu hình thành nền công nghiệp sinh học trong nông nghiệp.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đề án được xem là bước triển khai quan trọng, hướng tới hướng tới một nền nông nghiệp bền vững, phát thải thấp và góp phần giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.